Trang chủ > Tin tức
Ta đứng đầu ngọn sóng trước Giấc mộng Trung Hoa
- 08:35 | 10/09/2014Một chính khách, nguyên Bộ trưởng Hoa Kỳ, nhân dịp sang Việt Nam tham dự lễ kỷ niệm 40 năm ký kết Hiệp định Paris về Việt Nam đầu năm 2013 dự báo có ba vấn đề lớn của thế kỷ XXI: Tây Thái Bình Dương sẽ là một điểm nóng v�Biển Đông sẽ là một chảo lửa; Biến đổi khí hậu, nước biển dâng; và, sự phân cực giàu nghèo tột cùng, những hậu quả gây bất ổn định của nó trên phạm vi toàn cầu.
Điểm nóng Tây Thái Bình Dương và chảo lửa Biển Đông
Minh họa của Thúy HằngMột chính khách, nguyên Bộ trưởng Hoa Kỳ, nhân dịp sang Việt Nam tham dự lễ kỷ niệm 40 năm ký kết Hiệp định Paris về Việt Nam đầu năm 2013 dự báo có ba vấn đề lớn của thế kỷ XXI: Tây Thái Bình Dương sẽ là một điểm nóng và Biển Đông sẽ là một chảo lửa; Biến đổi khí hậu, nước biển dâng; và, sự phân cực giàu nghèo tột cùng, những hậu quả gây bất ổn định của nó trên phạm vi toàn cầu.
Động thái của một quốc gia chuyển từ một cường quốc Trung Hoa trỗi dậy sang một thế lực có chủ đích mở rộng lãnh thổ một cách có hệ thống ở Đông Á và Đông Nam Á là một nguyên nhân dẫn đến điểm nóng Thái Bình Dương.
Tiềm năng về dầu, khí và băng cháy ở Biển Đông, số lượng hải sản đánh bắt ở đây (có thể lên đến 10% lượng cung của toàn thế giới), lưu lượng hàng hóa vận chuyển từ Ấn Độ Dương sang Thái Bình Dương đi qua địa bàn là ba yếu tố nói lên tầm quan trọng của Biển Đông xét về các mặt địa chiến lược, an ninh, giao thông hàng hải và kinh tế.
Tuy nhiên để Biển Đông trở thành chảo lửa còn có những lý do khác.
Từ đầu năm 2012 Trung Quốc đã tìm cách lấn chiếm bãi cạn Scarborough của Philippines.
Gần đây hơn, ngày 2.5.2014, Trung Quốc đã hạ đặt trái phép giàn khoan Hải Dương 981 trong vùng biển thuộc đặc quyền kinh tế của Việt Nam và đã rút đi sau 75 ngày.
Hội thảo quốc tế Hoàng Sa - Trường Sa: Sự thật lịch sử tại Đà Nẵng và hội thảo Những khía cạnh pháp lý liên quan đến sự kiện Trung Quốc hạ đặt giàn khoa Hải Dương 981 trong vùng biển Việt Nam tại Thành phố Hồ Chí Minh gần đây đã cung cấp những chứng cứ về chủ quyền của Việt Nam tại quần đảo Hoàng Sa, qua đó cho thấy tính chất sai trái của việc làm này.
Ngày 25.6.2014 Trung Quốc phát hành một bản đồ dọc, theo đó hơn 80% Biển Đông nằm gọn trong một đường lưỡi bò chín đoạn mà Bắc Kinh yêu sách bất chấp luật pháp quốc tế.
Nhằm ngụy tạo cơ sở cho đường lưỡi bò này, ngày 11.8.2014, Trung Quốc đã phát hành một cuốn sách mang tên Về lịch sử, địa vị và tác dụng của đường 9 đoạn ở Biển Đông, nhân kỷ niệm năm thứ 100 ra đời đường lưỡi bò 9 đoạn, nhằm chứng minh chủ quyền của Trung Quốc đối với các đảo ở Biển Nam Trung Hoa, bao gồm quyền lợi, lợi ích hoạt động trên biển như ngư nghiệp, hàng hải và thăm dò khai thác tài nguyên như khoáng sản tại khu vực biển ở các đảo.
Trong ý đồ đó, từ nhiều năm qua, Trung Quốc cố gắng tạo dựng nên con đường tơ lụa trên biển để chứng minh rằng là từ đời nhà Tần, nhà Hán, Trung Quốc đã khai thác Biển Đông như là lãnh hải của mình. Thâm hiểm hơn, Trung Quốc đang tìm cách vận động UNESCO công nhận di sản văn hóa này của nhân loại.
Rõ ràng Trung Quốc sẽ hành động tổng lực, bất chấp sự thật lịch sử, luật pháp quốc tế và các cam kết song phương và đa phương mà họ đã ký kết để thôn tính Biển Đông. Đó là lý do khiến cho vùng này đang trở thành một chảo lửa.
Biến đổi khí hậu, nước biển dâng và nghiên cứu khoa học về biển đảo
Vùng duyên hải của các châu lục đã được con người khai thác mạnh mẽ trong suốt thế kỷ XX và sẽ được tiếp diễn trong thế kỷ XXI.
Dân số thế giới trong vùng duyên hải năm 1990 là 1,2 tỷ người. Hiện nay có khoảng 450 triệu người sống cách bờ biển dưới 5km, mật độ bình quân khoảng 180 người/km2; gần 500 triệu người sống ven biển dưới độ cao 10m, mật độ 200 người/ km2.
Theo nghiên cứu của R.J. Nicholls và ctv (2011), diện tích đất sẽ bị ngập ước tính là 877.000 km2 và 1.789.000 km2 lần lượt khi mức dâng 0,5m và 2m, xấp xỉ 0,6 và 1,2% tổng diện tích mặt đất toàn cầu. Số dân phải di dời do mực nước biển dâng còn quan trọng hơn, từ 72 đến 187 triệu người cho đến cuối thế kỷ, bằng xấp xỉ 0,9 đến 2.4% tổng dân số toàn cầu.
Vấn đề biến đổi khí hậu, nước biển dâng liên quan trực tiếp đến Việt Nam, một đất nước với 3.260km bờ biển, với trên 3.000 đảo và quần đảo, với đồng bằng sông Hồng và đồng bằng sông Cửu Long, một trong ba châu thổ bị uy hiếp nghiêm trọng nhất trên thế giới.
Phân tích số liệu các mức nước đo đạc tại các trạm thủy văn ven biển Nam bộ từ 1988 đến 2008, cho thấy nước biển dâng ở đây đã là một thực tế.
Báo cáo Kịch bản biến đổi khí hậu, nước biển dâng cho Việt Nam, do Bộ Tài nguyên và Môi trường công bố năm 2012, chỉ ra tác động đối với hai đồng bằng và các tỉnh duyên hải của Việt Nam, đặc biệt về diện tích ngập tĩnh.
Những năm gần đây bão vào Biển Đông có cường độ mạnh xuất hiện nhiều hơn. Quỹ đạo của bão có dấu hiệu dịch chuyển dần về phía nam và mùa bão kết thúc muộn hơn, nhiều cơn bão có đường đi dị thường hơn.
Số liệu bão trong 42 năm (1968-2009) cho thấy đã có 127 cơn bão hình thành ngay trên Biển Đông, đặc biệt trong những năm gần đây. Có ý kiến cho rằng đây là dấu hiệu hình thành một vùng ổ bão mới ngay trên Biển Đông.
Những áp thấp nhiệt đới và bão hình thành trong Biển Đông ảnh hưởng rất nhanh đến các hoạt động trên địa bàn và đổ bộ vào đất liền cũng nhanh hơn là từ Thái Bình Dương đi qua Philippines trước khi vào Biển Đông.
Những nghiên cứu về kiến tạo khu vực Đông Nam Á còn cho thấy biển đảo Việt Nam tiếp giáp với các vùng nguồn có thể gây nên sóng thần trên Biển Đông.
Nghiên cứu về biển đảo ở nước ta đã được tiến hành từ đầu thế kỷ XX, và được tiếp tục sau năm 1975. Cụ thể từ năm 2006 đến nay có Chương trình KC 09/06-10 đã hoàn thành, và Chương trình KC 09/11-15 sẽ hoàn thành cuối năm 2015. Cần thông báo kết quả đạt được đã phục vụ ra sao sự nghiệp phát triển biển đảo, cũng như sự phối hợp giữa các bộ, ngành trong lĩnh vực bao quát này.
Trong những năm gần đây nhiều công trình được công bố trên thế giới cho thấy các nhà khoa học Trung Quốc nghiên cứu khá sâu về Biển Đông, về sóng và triều ở nơi này và trong Vịnh Thái Lan, về sự hình thành châu thổ sông Mekong, và cả về luồng vào cửa Định An của sông Hậu…
Mặt khác, Trung Quốc đẩy mạnh hợp tác quốc tế để nghiên cứu, khảo sát và đo đạc tại Biển Đông. Một công được đôi việc, vừa tranh thủ chất xám và phương tiện của các nước, vừa thể hiện dấu ấn và sự hiện diện trên thực tế của họ.
Quản lý tốt vùng duyên hải để người dân được an cư và lạc nghiệp
Nhìn Việt Nam như một hệ thống thì biển đảo là một phân hệ, đất liền là một phân hệ và vùng ven biển là giao diện giữa hai phân hệ trên. Nghiên cứu một phân hệ, để đầy đủ, cần nhìn đến sự tương tác với các phân hệ khác thông qua các giao diện.
Dải đất miền Trung nhìn chung hẹp về chiều ngang, độ dốc khá lớn. Các sông ngắn, mô đun dòng chảy rất khác nhau giữa mùa mưa và mùa khô. Diện tích đồng bằng của các sông hẹp. Mật độ dân số và tỷ lệ dân số sống nhờ vào biển khá cao.
Phá rừng trên thượng nguồn sẽ mang lại nhiều tai họa cho hạ du, đặc biệt nạn rữa trôi, xói mòn, lũ quét và lũ lụt. Địa hình lòng sông, cửa sông và đường bờ biển sẽ biến động mạnh.
Rừng ngập mặn là đệm sinh học tự nhiên tiêu năng của sóng biển. Phá rừng ngập mặn vì cái lợi trước mắt cần nghĩ đến những mất mát to lớn hơn nhiều về lâu dài.
Khai thác thủy điện ở những nơi có thế nước cao là cần cho nền kinh tế, nhưng nếu không có quy hoạch nghiêm túc có thể dẫn đến tai họa. Từ năm 2012 đến nay, trong gần ba năm nhiều đập thủy điện ở miền Trung đã bị vỡ, có đập vỡ lần thứ hai.
Khai thác titan không quy hoạch cẩn thận, xây dựng khu công nghiệp trên các dải cát ven biển như một số địa phương đã làm, sẽ phá vỡ thế cân bằng địa mạo vốn rất mong manh với gió biển.
Đó là một số điều bức thiết cần được quản lý tốt thì vùng ven biển, đặc biệt ở miền Trung, mới có thể phát triển bền vững.
Trái ngược với tình trạng tại hầu hết các đảo, vùng ven biển nước ta có dân cư đông đúc, nguồn lao động dồi dào, với khoảng 27 triệu dân (bằng khoảng 30% dân số cả nước), và khoảng 18 triệu lao động. 58% dân cư vùng ven biển chủ yếu sống dựa và nông nghiệp và đánh bắt thủy sản. Dự báo các con số này sẽ lần lượt là 30 triệu và 19 triệu vào năm 2020.
Nhiều văn bản và nghị quyết của Đảng và Nhà nước khẳng định quan điểm cơ bản và đúng đắn người dân là động lực và mục tiêu của phát triển.
Quan điểm này được triển khai ra sao, vị trí của người dân biển đảo trong chiến lược biển Việt Nam thế nào, thực trạng đời sống của người dân ven biển và biển đảo, kế sinh nhai, cuộc sống của người dân, đâu là những thách thức cần giải quyết để người dân được an cư lạc nghiệp, hình như chưa có nhiều nghiên cứu về những vấn đề thiết thân này liên quan đến người dân.
Có coi trọng con người trong nhận thức mới có thể xây dựng các cơ chế, chính sách và biện pháp thích hợp trong từng giai đoạn phát triển, có tầm nhìn, có chiều sâu và nhất là có cái tâm vì dân.
Phải vực dậy nền kinh tế hậu phương đất liền
Nền kinh tế Việt Nam gồm có kinh tế đất liền và kinh tế biển, đại dương gắn kết với nhau và bổ sung cho nhau.
Trong cuộc họp Thượng đỉnh APEC lần thứ 12 năm 2004 tại Chile, các chuyên gia cho rằng kinh tế biển và đại dương bao gồm 9 lĩnh vực trọng yếu: Khoáng sản (dầu khí); Nguồn lợi sinh vật, kể cả thực vật biển; Vận tải biển (hàng hải, cảng, đóng tàu); Phòng thủ (an ninh quốc phòng - dịch vụ quốc gia); Công trình biển (công trình bảo vệ bờ, phục hồi, lấn biển); Du lịch, nghỉ dưỡng; Chế tạo và chế biến; Dịch vụ biển; Nghiên cứu biển và giáo dục.
Để khai thác được các tài nguyên của Biển Đông, ngoài vấn đề an ninh quốc phòng, nền kinh tế, các ngành phải đủ sức vươn ra đến biển đảo và làm giàu cho biển đảo và cho đất nước từ biển đảo.
Nhiệm vụ của ngành công nghiệp nói chung, cơ khí nói riêng, là rất nặng nề. Nhưng ngành khó có thể lớn lên để gánh vác trọng trách ngày nào còn thực hiện tổng thầu EPC như đã làm cho đến nay.
Một báo cáo của Ủy ban Tài chính và Ngân sách trước Quốc hội đưa ra nhiều con số đáng suy nghĩ. Tính đến năm 2010, có đến 90% các dự án tổng thầu EPC tại Việt Nam rơi vào tay nhà thầu Trung Quốc, trong đó có 30 dự án trọng điểm quốc gia.
Tại hầu hết các dự án EPC mà Trung Quốc trúng thầu, hầu như họ làm tất, từ sử dụng lao động giản đơn trở đi. Tại hai dự án alumin Tân Rai và Nhân Cơ, họ giao cho thầu phụ Việt Nam lần lượt 1,7% và 0,5% giá trị các gói thầu!
Các nhà thầu Trung Quốc trúng thầu vì họ chào giá thấp, nhưng sau một thời gian triển khai trầy trật họ xin nâng giá thầu, hoặc tráo thiết bị không đúng hợp đồng. Thống kê còn cho thấy hầu hết các dự án EPC Trung Quốc đều bị chậm so với tiến độ bình quân từ 2 đến 3 năm, nghĩa là trên dưới phân nửa một kế hoạch 5 năm. Chọn EPC Trung Quốc vì giá thầu thấp nhưng rốt cục chưa chắc đã thấp, thời gian lại kéo dài mà chúng ta lại đánh mất cơ hội nhập công nghệ mới hơn.
Tại cuộc hội thảo Tự chủ kinh tế trong một thế giới phụ thuộc lẫn nhau, gần đây, nhiều chuyên gia kinh tế cho rằng tình trạng lệ thuộc trong mối quan hệ xuất nhập khẩu giữa Trung Quốc với Việt Nam là nặng nề. Trong sản xuất nông nghiệp, từ vật tư đầu vào đến thị trường đầu ra đều bị Trung Quốc thao túng.
Lý do từ Trung Quốc đã đành, nhưng còn có lý do chủ quan. Tại sao các mặt hàng chủ lực xuất khẩu của ta hầu như đều ở bậc dưới thấp của các chuỗi giá trị?
Phải vực dậy nền kinh tế hậu phương đất liền mới có thể phát huy được tiềm năng biển, phát triển kinh tế biển đảo và phát triển cả nền kinh tế Việt Nam.
Phải xem thoát khỏi sự lệ thuộc (khác hẳn với phụ thuộc lẫn nhau) về kinh tế là điều tất yếu cần làm, càng sớm càng tốt, và phải được thể hiện cụ thể, căn cơ trong chủ trương tái cơ cấu nền kinh tế.
Với vị trí địa chính trị của mình, với tiềm năng kinh tế của Biển Đông, trước những thách thức về lãnh hải và về biến đổi khí hậu, mạnh với lòng yêu nước và khối đoàn kết toàn dân tộc, Việt Nam còn phải vững để đứng ở đầu sóng.
Gs.TsKH. Nguyễn Ngọc Trân
Các bài viết khác
Đường cao tốc Hà Nội - Hải Phòng
Dự án đường giao thông thành phố Hà Nội
Thông xe 24 cầu vượt trên quốc lộ 5
Khánh thành Dự án cải tạo nâng cấp Quốc lộ 18 đoạn Uông Bí - Hạ Long và động thổ đoạn Bắc Ninh - Uông Bí
Tháng 8 sẽ hoàn thành cao tốc Nội Bài - Lào Cai
Bộ Giao thông lập 8 đoàn xử lý xe cơi nới thùng hàng
Kết nối các phương thức vận tải tuyến Hải Phòng - Lào Cai
Singapore xây dựng hàng rào chống ồn giao thông
Cầu 12 tiên phong đổi mới công nghệ làm cầu
Hà Nội thống nhất xây cầu mới cách cầu Long Biên 75m
Mua bán thầu vẫn còn "đất diễn"
Nối dài hơn 40km tuyến cao tốc Hà Nội – Thái Nguyên
Thêm nghi vấn cháu cục trưởng trúng tuyển
Dinh thự hoành tráng, vườn cao su bát ngát của Chủ tịch Bình Dương?
U19 VN – U19 Thái Lan: Tiến gần vinh quang